Sau 3 năm liên tục tăng ở mức cao (2012-2014), 11 tháng qua, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã giảm 28% về sản lượng và 30% về giá trị. Ðây là mức giảm mạnh nhất trong nhóm mặt hàng nông lâm thủy sản xuất khẩu.
Với sự tuột dốc này, ngôi vị á quân thế giới chỉ sau Brazil của cà phê Việt Nam đang bị đe dọa. Bằng chứng là thị phần xuất khẩu của cà phê Việt Nam đã giảm chỉ còn 18%, so với mức 22% năm ngoái.
Bộc lộ nhiều yếu kém
Không thể phủ nhận xuất khẩu cà phê Việt Nam năm 2015 giảm có yếu tố khách quan. Đó là nhu cầu nhập khẩu cà phê của thế giới giảm. Theo số liệu từ Tổ chức Cà phê Thế giới, lần đầu tiên sau 5 năm, thế giới mới lại chứng kiến lượng cà phê nhập khẩu giảm.
Tuy nhiên, trong 3 nước xuất khẩu cà phê đứng đầu gồm Brazil, Việt Nam và Colombia, chỉ Việt Nam bị ảnh hưởng. Colombia vừa trải qua niên vụ với sản lượng lớn nhất 22 năm qua, thu về chừng 1,87 tỉ USD, mức giá trị lớn nhất từ trước đến nay. Năng suất trồng cà phê của Colombia cũng tăng từ 10 bao/ha (2009) lên 16 bao/ha (2015).
Brazil cũng đã có một vụ 2014/2015 bội thu. Tình hình thuận lợi đến mức tháng 11 vừa qua, Tổng cục Thống kê của Brazil (IBGE) đã phải tăng dự báo sản lượng cà phê lên thêm 2% so với dự báo tháng trước. Trong khi đó, Việt Nam không chỉ suy giảm sản lượng, giá trị, thị phần xuất khẩu cà phê như đã đề cập, mà còn lao đao ở nhiều khía cạnh.
Ông Đỗ Hà Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam (Vicofa) từng chia sẻ, một trong những thách thức cho cà phê Việt Nam là tỉ giá. Trong khi đồng Việt Nam giảm giá không đáng kể, đồng nội tệ của Brazil lại giảm đến 70%. Do cà phê Brazil có uy lực dẫn đầu thị trường cộng thêm giá cạnh tranh, nhiều nông dân, doanh nghiệp Việt Nam chọn “ôm” cà phê vì càng xuất càng không lãi. Ước tính, tồn kho cà phê Việt đã lên đến hơn 400.000 tấn.
Thừa dịp Việt Nam găm giữ hàng, Colombia và Brazil đã tận dụng cơ hội để chiếm lấy thị phần xuất khẩu. Điều này lại càng khiến bài toán “giữ hàng, đẩy giá” của Việt Nam trở nên vô tác dụng. Theo quan sát của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), nông dân Việt Nam đã phần nào giảm kỳ vọng, không trông đợi giá cà phê tăng trở lại 40.000 đồng/kg mới bán cho thương lái.
Thực tế, mức giá 40.000 đồng/kg cà phê không phải là cao, bởi đã được thiết lập từ năm 1994. Hơn 20 năm qua, giá cà phê vẫn đứng nguyên một chỗ trong khi giá các mặt hàng nông sản khác đã tăng hơn 10 lần. Như Vicofa tính toán, dù chiếm 18-20% thị phần xuất khẩu cà phê toàn cầu, nhưng xét giá trị, Việt Nam chỉ đạt 2% thị phần.
Với đà phá giá đồng tiền của Brazil và Colombia, giá cà phê Arabica, loại cà phê chất lượng cao, đã tiệm cận dần với giá cà phê Robusta. Đặt lên bàn cân so sánh, nhà nhập khẩu sẽ có xu hướng chọn mua cà phê Arabica. Điều này càng thách thức cho nông dân và doanh nghiệp Việt, vì hơn 90% lượng cà phê của Việt Nam lại là Robusta.
Việt Nam cũng đang đối mặt với tình trạng khô hạn và tỉ lệ diện tích cà phê già cỗi gia tăng. Khô hạn đang tác hại đến 40.000 ha cà phê, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Ví dụ, riêng Đắk Lắk hiện có 30% diện tích cà phê nằm trong diện cần tái canh. Tuy nhiên, việc này lại gặp phải nhiều trở ngại. Để tái canh, nông dân cần đến vài trăm triệu đồng cho mỗi ha. Đây là số tiền lớn, ngoài khả năng của họ. Mặt khác, 80-90% người trồng cà phê là hộ cá thể, trồng trên diện tích nhỏ (0,5-1 ha) nên khó tiếp cận vốn vay, khó chyển đổi giống mới hay áp dụng kỹ thuật. Ngoài ra, phải mất 5 năm sau tái canh cà phê mới cho thu nhập trở lại, càng khiến nông dân không thiết tha.
Trong 5 năm tới, ước tính 1/4 diện tích cà phê hiện tại của Việt Nam sẽ tới tuổi “hưu”.
Trước khó khăn bủa vây, không chỉ một số doanh nghiệp cà phê rời bỏ cuộc chơi mà nhiều nông dân cũng chấp nhận chặt cây cà phê để trồng cây khác. Cục Trồng trọt cảnh báo, điều này có thể đe dọa đến tính bền vững của ngành cà phê. Bởi để duy trì sản lượng và thị phần xuất khẩu, Việt Nam cần ổn định 500.000 ha diện tích khai thác. Nhưng 5 năm tới, ước tính 1/4 diện tích cà phê hiện tại tới tuổi “hưu”, phải được chuyển đổi, thay thế.
Hướng đến nội địa
Việt Nam đã có quy hoạch chi tiết đến năm 2020, sẽ có 4 vùng trọng điểm với 530.000 ha ở Đắk Lắk, Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Nông. Ngoài ra, ở một số tỉnh sẽ trồng thêm 70.000 ha cà phê. Trong đó, Lâm Đồng, Kon Tum, Sơn La, Điện Biên sẽ trồng 40.000 ha cà phê Arabica. Tuy nhiên, hiệu quả của quy hoạch vẫn là ẩn số do những khó khăn trong trợ vốn trồng mới và tái canh.
Trước mắt, động lực cho người trồng cà phê là Bộ Nông nghiệp Mỹ và Ngân hàng Rabobank đều cùng dự báo, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sẽ phục hồi và tăng 30% trong niên vụ tới đây.
Nhưng xét về giá, Tổ chức IMF cho rằng, giá cà phê Robusta năm 2016 sẽ giảm 10% so với năm 2015. Tương tự, Ngân hàng Thế giới nhận định, giá cà phê Robusta (cố định) sẽ giảm 3% năm 2016 và giảm mạnh hơn ở các năm tiếp theo. Vì thế, ông Nguyễn Trung Kiên, Viện Chính sách và Chiến lược, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn khuyến nghị Việt Nam cần đẩy mạnh xuất khẩu cà phê vào những thị trường có đồng nội tệ mạnh như Mỹ.
Về việc gia tăng giá trị cà phê thông qua chế biến, Vicofa cho biết nhiều nhà đầu tư nước ngoài như Nestlé hay Olam đã đưa các nhà máy chế biến đi vào hoạt động, thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ cà phê nhân.
Với 160 cơ sở chế biến cà phê bột (cà phê rang xay) và 19 nhà máy chế biến cà phê hòa tan, ngành cà phê chế biến của Việt Nam đang tạo ra chuyển biến tích cực. Từ chỗ chỉ chiếm thị phần hơn 1%, Việt Nam vươn lên hạng 5 trong số những nước xuất khẩu cà phê hòa tan lớn nhất thế giới, sau Brazil, Indonesia, Malaysia và Ấn Độ, theo Bộ Nông nghiệp Mỹ.
Tuy nhiên, để tiết kiệm chi phí hơn nữa, ông Đỗ Hà Nam cho rằng, doanh nghiệp cần tăng cường bán cà phê trực tiếp. Intimex, Simexco, Phúc Sinh đều đã bán hàng trực tiếp cho các nhà rang xay quốc tế ngay từ đầu vụ.
Trong tiêu thụ nội địa, theo Vicofa, trước năm 2010, lượng cà phê nhân bán trong nước của Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 5-7% tổng sản lượng. Nhưng hiện tỉ lệ này đã lên đến 10% và có thể đạt tới 15% vào năm 2020. Theo những người kinh doanh cà phê, chỉ cần thuyết phục 20% dân số Việt Nam uống mỗi ngày một ly cà phê, Việt Nam có thể đạt mục tiêu này.